CHẾT & TÁI SINH
Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013
Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013
CHẾT, THÂN TRUNG ẤM VÀ TÁI SINH
CHẾT,
THÂN TRUNG ẤM VÀ TÁI
SINH
---o0o---
1.
CHẾT:
Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam
độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành,
thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
Khi con người chết, nếu có những khuynh hướng như thế sẽ tiếp tục đầu thai trong
vòng sanh tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp
thiện và ác ở kiếp sống vừa qua.
Một số người chết vì kiệt sức hoàn
toàn, một số khác chết do hao mòn phước đức, chết
không đúng thời điểm hay còn gọi là bất đắc kỳ tử.
Một người chết thường ở một trong ba
trạng thái tâm: Thiện, Bất thiện và Vô ký. Trong trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán tưởng về Tam
Bảo hay một vị thầy đức hạnh của mình, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh
tín tâm. Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng niềm hỷ lạc vô biên để thoát khỏi
sự ràng buộc của những phiền não tham dục, luyến ái, thay vào đó bằng
cách quán niệm Tánh không và Tâm từ bi. Ðiều này có thể tự người hấp hối làm
hoặc qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối, một người chết
với tâm thanh tịnh như thế thì việc tái sinh
của họ sẽ được cải thiện. Ðây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết.
Mặt khác, ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người
đang hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi. Ðôi khi người thân
và bạn bè tập trung quanh tử sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi thảm,
sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái và quyến luyến. Nếu người chết với tâm
niệm bất thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai
vào cõi xấu, điều này rất nguy hiểm. Trong bất cứ trường hợp nào, trạng
thái tâm của người hấp hối bao giờ cũng quan trọng trước khi chết. Bởi vì ngay
cả một người tu luyện tâm linh mà bị quấy rầy vào thời điểm ấy cũng làm cho
phiền não phát khởi, chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp và đó là động
cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào một cõi bất
lợi như bao đường ba ác: Ð?a ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh. Vì thế, điều tối
quan trọng cho cả người hấp hối lẫn người sống là tránh tạo ra những tình huống
gây bất lợi cho tâm thức của người chết. Chúng ta cần biết điều này.
Những người chết trong trạng thái tâm thiện đều có cảm giác mình từ trong bóng tối
thoát ra ánh sáng, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh phúc. Có nhiều trường hợp
người bệnh rất nặng, đến lúc gần chết đã nói ra những điều tốt đẹp thoải mái
thay vì nói đến căn bệnh của họ. Còn đối với người bệnh tuy nhẹ nhưng nỗi
sợ hãi quá lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng hốt, nên có cảm giác
mình từ nơi ánh sáng đi vào trong bóng tối và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào cảnh
khổ đau.
Một số người, thân thể ấm áp của họ
đã bị suy yếu qua cơn bệnh nên họ trở nên khao khát muốn được hơi nóng,
bằng cách này củng cố thêm cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa ngục
nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng. Những người khác thích cái mát lạnh, thích
uống nước lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ hướng vào nơi như địa
ngục hàn băng hay một nơi có khí hậu lạnh. Vì thế điều rất quan trọng là tránh
khởi những ý niệm tham ái trong lúc chết và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.
2. THÂN TRUNG ẤM :
Thân trung ấm (bardo/intermediate
state) được hiểu nôm na là sự sống sau khi chết
trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào đó
(Trời, Người, A tu la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh). Thân trung ấm là
thân không có xác thịt mà chỉ lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần
thức thoát ra khỏi xác thì trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích
hợp với nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung
ấm chưa tìm thấy một nơi tương ứng với mình để tái
sinh thì nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một
thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái
sinh.
Trong thời gian ở lại với cõi trung
ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra mình đã chết, họ quay lại
gia đình để gặp những người thân nhưng không ai hay
biết, họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở
lại bình thường như lúc còn sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra họ không có
bóng hình trên đất, không có ảnh trên gương, họ mới biết là mình đã chết. Giờ
đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đã tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay
khổ đau trong suốt đời họ hiện ra trước mắt như một cuộn phim. Nếu là
vong linh của người vốn từng tạo phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm
giác yên bình, thanh thản và dễ dàng để tìm đường tái sinh vào cõi lành. Còn nếu
những người từng tạo ra ác nghiệp, sống cuộc đời tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ
hãi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cõi trung
ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu
thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của mình, thì người ấy chọn
lựa cho mình một cảnh giới tốt để tái sinh, ngõ hầu tiếp tục tu luyện hoặc vì
hạnh nguyện cứu độ chúng sinh. Bằng như trái lại, thì không có sự lựa chọn nào,
dù muốn hay không thì thần thức của người ấy cũng buộc phải thọ sinh vào một
cảnh giới nào đó khế hợp với nghiệp lực của mình.
3. TÁI SINH:
Nếu được tái sinh trở lại cõi
người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của mình đang nằm với nhau.
Nếu người ấy tái sinh thành người nam thì phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ
mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở thành người nữ thì ngược lại, thần thức
người khởi tâm muốn giao hợp với người kia, nhưng lúc ấy họ chỉ thấy bộ phận
sinh dục của người kia (nam hay nữ) mà không thể thực hiện được, do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đã làm
chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách nhập
vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với hình dáng của một con người. Khi
ấy tinh cha và huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người ấy, họ tự nhiên và
dần dần phát triển thành một con người.
Như đã nói ở trên, khi gần đến
ngày tái sinh, thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh tương lai, thậm
chí nơi ấy là địa ngục. Ví dụ, một đồ tể nhìn thấy
một con cừu, anh ta muốn đuổi bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta
thấy bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận đã làm kết liễu thân trung
ấm và thần thức của anh ta rơi vào Ðịa ngục hay Súc sinh.
Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này
sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc cấu tạo tâm tánh của con người. Nghiệp được hình thành
dưới sự tập hợp của tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh
(ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ của mọi ác nghiệp. Do ác
nghiệp này mà khiến cho con người trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Ðể thoát
khỏi vòng tuần hoàn khổ đau này con người phải nỗ lực tu tập đoạn diệt cho bằng được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị
tận diệt thì ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt thì sinh, lão, bệnh,
tử, sầu bi khổ ưu não cũng không còn, khi ấy con người mới thật sự thoát khỏi
vòng vây của sinh tử luân hồi.
CUỘC HÀNH TRÌNH ÐI ÐẾN KIẾP SAU
CUỘC HÀNH TRÌNH ÐI ÐẾN KIẾP
SAU
---o0o---
Thượng tọa
Pende Hawter, sáng lập Viện Dưỡng Ðường Tiếp Dẫn Karuna (Từ Bi) để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố
Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Ðại Lợi, đã thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc
Ðại sư Tây Tạng như Dalai Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche, Kirti Tsen-shab
Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến trình hấp hối, chết
và tái sinh của con người. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995
tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Ðộ.
GIÚP ÐỠ CHO NGƯỜI HẤP HỐI
Hỏi: Xin cho biết cách
nào tốt nhất để chúng ta có thể giúp đỡ cho người
đang hấp hối và người vừa qua đời?
Ðức Dalai Lama: Khi gặp người đang hấp hối tuyệt đối tránh quấy rầy họ.
Ð?c biệt là không làm cho họ nổi giận hoặc khóc lóc để họ sanh tâm quyến luyến. Ngược lại, phải nhắc nhở để họ
hành trì, tu tập vào giờ phút cuối, ví dụ như quán tưởng hình ảnh của chư
Phật, các vị thầy đức hạnh, Chúa Jésus, hoặc một lời dạy nào đó tùy theo tín
ngưỡng của họ. Nếu người ấy không theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết
trong thanh thản và yên bình.
Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là
hành giả, thì nhắc nhở pháp môn mà họ công phu thường ngày, đặc biệt là lúc họ
sắp ra đi. Kế đó tụng một số bài cầu nguyện. Nếu
thân nhân muốn tốt cho người đang hấp hối thì tự tụng niệm hoặc cung thỉnh chư
tăng về nhà để cầu nguyện cho họ. Trường hợp không có chư Tăng tiếp dẫn, người
thân trong gia đình có thể tụng thần chú Om mani padme hum, hoặc
những thần chú khác mà họ biết, để tiếp dẫn cho
người chết. Sau tang lễ, gia đình tiếp tục thọ trì, tụng niệm đến ngày
thứ 49 cho hương linh dễ dàng tìm lối tái sinh vào cõi lành.
Công việc mai táng thi hài còn tùy
nghi theo mỗi nền văn hóa hay tập tục của người
chết, điều này không mấy quan trọng, bởi vì một khi thần thức
(consciousness) đã thoát thân thì xác
chết ấy cũng giống như một đống đất. Tại một
làng không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Ðộ, tập quán của họ là chôn
cất thi hài rồi trồng cây lên mộ. Ðây là một cách để chấm dứt việc ô nhiễm không
khí (air pollution) từ hỏa táng bằng củi
đuốc, một tập tục thường thấy ở Ấn Ðộ, điều này còn tránh đi việc hủy
diệt cây rừng, một tài nguyên quý giá của quốc gia. Ðây là một phương pháp tốt
mặc dù nó không bằng như ở phương Tây nơi dùng điện
để hỏa táng.
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Ðối với người hấp hối và người vừa chết, cách tốt nhất mà bạn
muốn giúp đỡ là phát khởi lòng bi mẫn của
chính bạn hướng đến với người sắp lâm chung. Lòng thương yêu và bi mẫn của bạn
rất có ích cho người hấp hối, vì nó phát khởi từ lòng bạn nên bạn dễ dàng tỏ bày
cho người ấy lòng bi mẫn vô điều kiện mà người sắp chết rất cần. Lòng bi mẫn
thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến
chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của
họ trong tương lai. Một điều quan trọng khác là bạn đừng xa lánh và bỏ người
đang hấp hối một mình. Chết là sự thật và là một nỗi sợ hãi ghê gớm nhất
đối với con người. Do đó, bạn nên ở bên cạnh
họ, hoặc cầm tay họ nói lời an ủi, hoặc nhìn vào mắt họ với niềm cảm thông. Thân
thể cũng có ngôn ngữ yêu thương của nó, hãy sử dụng nó đừng sợ hãi vì e rằng họ
hôi hám, dơ bẩn hoặc sợ họ bắt mình theo, nếu bạn thể hiện được những cử chỉ
trìu mến như thế, thì bạn sẽ đem lại cho người sắp
lâm chung niềm an lạc lớn nhất ở cuối cuộc đời họ.
Khi bạn chắc chắn người ấy đã
chết, bạn vẫn duy trì lòng bi mẫn vô bờ của bạn và cùng với mọi người ở bên cạnh
tử sàng mà tụng lớn danh hiệu chư Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Ðà
hoặc danh hiệu 35 vị Phật v.v... Nếu bạn niệm Phật với lòng bi mẫn vô biên của
bạn sẽ giúp cho người lâm chung một bước đường tái sinh.
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche:
Có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ
nhất là người có tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn giáo đặc
biệt nào. Nếu người hấp hối là một Phật tử thì chúng ta tụng kinh và niệm Phật
tiếp dẫn siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín ngưỡng nào thì điều tốt nhất để giúp đỡ họ là khuyên họ nghĩ đến
những người tốt và những điều tốt đẹp nhất trên
đời. Khi một người đang hấp hối và trong giờ phút bối rối ấy, không gì
tốt hơn là đem lại cho họ cái cảm giác bình an và ấm áp của lòng người, cảm giác
này rất có ích cho tâm thức của họ.
Tôi sẽ giải thích chi tiết về những
gì để giúp đỡ hai hạng người này. Ðối với
người theo đạo Phật, chúng ta có thể gợi cho họ hồi hướng về những gì mà họ từng
quy y và tu tập. Chúng ta có thể nhắc cho họ nhớ về
Bồ đề tâm, tỉnh thức tâm, thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định...
Ðiều này rất có lợi cho một Phật tử. Ðối với người không có đạo, chúng ta
có thể khuyên họ suy nghĩ rằng: "Cầu mong cho
mọi người được hạnh phúc, cầu mong cho mọi sinh linh được an vui, cầu nguyện cho
mọi chúng sanh thoát khỏi những khổ sầu của họ". Những ý tưởng muốn sự tốt đẹp đến với người khác, rất
có ích cho người hấp hối.
Ðối với Phật tử lúc sắp chết, nên
nhắc cho họ nhớ về công hạnh của chư Phật, nhớ về hình ảnh của một vị Phật nào
đó, có thể đặt một ảnh Phật trong phòng của
họ... Ðiều này rất có ích và là điều kiện giúp cho vong linh tái sinh vào đất
tịnh.
Ngay sau khi người ấy chết, điều rất
quan trọng cần lưu ý là không được đụng chạm đến thi hài của họ để cho
tiến trình chết không bị gián đoạn, tiến trình này chỉ chấm dứt khi thân
trung ấm (Bardo/Intermediate state) hoàn toàn thoát ra khỏi thân xác. Ở
Tây Tạng, người thân phải đợi 48 tiếng đồng hồ sau
mới tiến hành tang lễ.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Nói
chung, khi đã xác định người ấy sẽ chết, điều quan
trọng là phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ tỏ ra luôn luôn
giận dữ thì chúng ta nên làm cách nào để ngăn chặn
cơn giận của họ, giữ cho họ luôn ở trạng thái thanh thản và yên bình. Nên
tránh gây ồn ào và di chuyển đi lại thường xuyên bên người ấy. Nếu người hấp hối
quá quyến luyến người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con cái, thì tốt nhất
không cho những người thân này đến gần tử sàng. Hãy cố gắng làm điều này để chấm
dứt lòng luyến ái của người hấp hối. Nếu xác định
chắc chắn rằng họ sẽ chết, thì chúng ta nên cho họ những đồ ăn thức uống và các thứ mà họ đòi hỏi để họ vui
lòng và thỏa mãn, ngay cả thức ăn kiêng cữ trong thời gian điều trị. Tuy nhiên,
không được cung cấp độc dược và thức ăn có thể đe
dọa đ?n mạng sống.
Nếu chúng ta cố gắng nói Pháp cho
người hấp hối nhưng họ không thích nghe, thì tốt nhất là đừng nói, vì điều này
tạo cho họ có ác cảm đối với Chánh pháp. Với ý nghĩ như vậy thì đời sau họ sẽ
không thích gần gũi với Phật pháp.
Tương tự, nếu họ thích ăn uống mà mình không làm thỏa mãn ước
muốn của họ, sẽ làm họ giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài ngạ quỷ
(hungry ghost).
Nếu một người tin tưởng vào sự giúp
đỡ của người khác và cũng là người từng giúp đỡ kẻ
khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh tốt của họ
và khen tụng về việc tốt mà họ đã làm. Việc này làm tâm họ vui và họ sẽ tái sinh
ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp cho ước nguyện của người hấp hối hoàn
thành, thì họ sẽ rất mãn nguyện. Ðiều này ngăn ngừa
sự trỗi dậy lòng tham ái, giận dữ, quyến luyến và những tâm tà kiến khác
của người hấp hối, nhờ đó giúp họ tái sinh vào cõi lành mà không đọa vào cõi
xấu.
Ðối với Phật tử và người từng thọ trì
một pháp môn nào đó thì thật là thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết
như sau:
1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và
tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của mình, vì dẫu đời sau có gặp lại thì
cũng phải chia lìa. Trong thời điểm hấp hối, ta
phải bỏ tất cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của
mình, vì lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức
ăn, áo quần, nhà cửa, vì những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta.
2. Ta nên phát khởi lòng bi mẫn và
thương yêu đối với mọi chúng sanh.
3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và
thù hằn, nếu không thì nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.
4. Tất cả các giới pháp mà mình thọ
trì nếu đã vi phạm thì phải cố gắng sám hối cho thanh tịnh trước khi chết.
5. Ta phải phát tâm dõng mãnh trong
đời vị lai sẽ thọ trì và giữ giới pháp thanh tịnh.
6. Ta phải cảm thấy đau xót về những
ác nghiệp mà mình đã gây tạo cho người khác trong đời này và phải sám hối
để dễ dàng tái sanh.
7. Ta phải nhớ đến những công
đức mà mình đã làm trong đời này, những công đức của người khác đã làm và phát tâm sẽ tiếp tục
làm trong vị lai.
8. Ta nên nghĩ đã đến lúc mình phải
ra đi để đến đời sau, không có gì sợ hãi cả,
vì đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.
9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh và
cũng do nhân duyên mà hoại diệt.
10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật
hiện tượng đều vô ngã để ta vượt thoát khỏi sầu và đạt được sự an
lạc.
Ðại sư Dilgo Khyentse
Rinpoche: Cách tốt nhất để giúp cho
người hấp hối là lời nói và hành động của mình phải được thúc đẩy bởi lòng từ bi. Nếu có thể thì cung
thỉnh các bậc thầy đức hạnh đến để làm pháp
chuyển di tâm thức (transference of consciousness) cho người hấp hối.
Pháp này Tạng ngữ gọi là Powa, được xem là một pháp tu đặc biệt có giá trị và
hiệu quả nhất để giúp cho người hấp hối. Bạn quán tưởng hình ảnh đức Phật ở trên
đầu người hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp lâm chung
làm sạch bản thể của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, hòa nhập vào ánh
sáng của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là còn tùy
thuộc vào sức thiền định của người đang thực hiện
pháp tu này. Pháp tu đặc biệt này không những dành cho người sắp chết mà
còn có thể giúp tịnh hóa và chữa lành bệnh cho người còn sống. Các vị Lama vẫn
thường dùng pháp này để cầu an thọ mạng cho người già yếu. Một số vị thầy cho
rằng nên thực hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng lại giữa hơi thở vào
và hơi thở ra. Nhiều người khác thì nói rằng nên thọ trì pháp này càng nhiều
càng tốt sau khi người đó chết để hộ trì cho
thân trung ấm của họ dễ dàng tái sinh.
Theo giáo nghĩa của Luật Tông thì nên
hỏa táng thi thể càng sớm càng tốt sau khi chết. Nhưng theo Mật Tông thì tốt
nhất là đừng di dời thân thể sau khi chết trong vòng ba ngàỵ
Hỏi: Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể xác và hãi
hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp nào tốt nhất để giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi
đó?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche:
? phương Tây người ta thường dùng thuốc phiện hoặc thuốc an thần để giảm cơn đau thể xác của người hấp hối
và giúp cho họ chết trong bình an. Tuy nhiên theo Phật giáo thì con người
cần phải chết một cách đầy đủ ý thức, có sự tự chủ
và tỉnh táo càng nhiều càng tốt. Vì thế cần phải kiểm soát sự đau đớn để nó không thể che mờ ý thức của người sắp lâm
chung, đó là điều kiện cốt yếu của việc làm giảm sự đau đớn về thể
xác.
Thứ hai, làm gì để giúp người sắp
chết vượt qua nỗi sợ chết? Trước hết, bạn phải thật bình tĩnh và chính bạn cũng
phải vượt qua nỗi sợ hãi ấy. Khi giúp đỡ người hấp
hối, bạn cần phải lưu ý từng phản ứng của chính bạn, vì phản ứng của bạn
sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp chết và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự
an ủi của họ hay tàn phá họ. Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn cần chú ý trấn an người
hấp hối rằng trong giờ phút cuối cùng này họ sẽ đối mặt với vô số những cảnh
tượng hãi hùng khác nhau mà lâu nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến cho họ vô cùng sợ hãi. Tuy nhiên, bạn
phải trấn an họ rằng đó chỉ là ảo ảnh hoàn toàn không có thật mà chỉ là sản phẩm
từ ảo giác của người hấp hối. Nếu có thể hãy trao cho họ chuỗi ngọc Mani, hoặc
một xâu chuỗi hạt của các thầy đức hạnh sẽ giúp đỡ
cho họ vượt qua nỗi sợ hãi. (Chuỗi hạt ở
đây là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).
Hỏi: Ðối với người
không phải là Phật tử, họ không theo một tín ngưỡng nào, thì làm gì để giúp
họ?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche:
Ðối với một người không tin hoặc không biết gì về đạo Phật, chỉ cho họ
viên ngọc Mani cũng như an ủi và giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng
rợn mà họ sắp thấy trong chốc lát chỉ là những ảo ảnh trong giấc mộng chứ không
có thật. Nhờ sự dặn dò trước này, họ sẽ vượt qua nỗi sợ hãi khi hấp hối.
KHI NÀO THẦN THỨC CỦA NGƯỜI MỚI RA KHỎI THỂ XÁC?
KHI NÀO THẦN THỨC CỦA NGƯỜI MỚI RA
KHỎI THỂ XÁC?
---o0o---
Hỏi: Ở phương Tây, dấu
hiệu thông thường của cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng đập. Còn theo
Phật giáo thì phải mất bao lâu sau khi việc này xảy đến thần thức mới thoát ra
khỏi thể xác?
Ðại sư Kirti Tsenshab
Rinpoche: Có lẽ có hai hạng người cần xem
xét ở đây. Thứ nhất, những người trẻ tuổi hoặc những người đã nằm chờ
chết trong một thời gian dài. Hạng người này tâm thức rất tinh tế và thần thức
của họ sẽ không lưu lại trong thể xác lâu, có thể chỉ một ngày thôi. Thứ hai là
những người mạnh khỏe và cái chết đến nhanh, thần thức của họ lưu lại trong thể xác đến ba ngày.
Những cái chết khác như bất đắc kỳ
tử(chưa đến thời điểm chết mà phải chết), chết vì tai nạn
hay vì bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém nhau,
một người trong số đó chết đột ngột, thì thần thức của họ không lưu lại
trong thể xác lâu. Nói chung, thời gian bao lâu tùy thuộc vào tâm thức nặng hay
nhẹ của mình mà thoát ra khỏi thân xác sau khi chết.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Khi
hơi thở dứt và tim ngừng đập, nó chỉ rõ rằng phần thô của thần thức đã tan mất.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp, phần tinh tế của tâm thức còn lưu lại trong xác
thân người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả tháng. Nhưng hầu hết là phần tinh
tế của tâm thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày, trong thời gian này thi
hài không bốc mùi hoặc thối rữa.
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Chưa thể khẳng định rằng một
người bình thường, sau khi chết thần thức của họ rời khỏi xác trong ba
ngày sau đó. Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một số người khác thì trụ lại
thời gian ngắn hơn. Có nhiều ví dụ điển hình trong số các vị Lama Tây Tạng. Như
đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy học của đức Dalai
Lama, thần thức của ngài đã trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi
viên tịch. Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những trường hợp tương tự vẫn
thường xảy ra.
Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành
tang lễ hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày sau. Tuy nhiên, ngày nay
điều này khó thực hiện vì người ta sợ ô nhiễm, do vậy, nên làm phép chuyển di
tâm thức trước khi động đến thể xác của người quá
cố.
Hỏi: Trường hợp của những
người chết vì bệnh quá nặng như ung thư và Aids (Sida) thì thần thức của họ có
thoát xác nhanh hơn không?
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Ðiều này không chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay muộn
không thực sự tùy thuộc vào người chết bị tai nạn hay bị bệnh nặng, mà tôi nghĩ
rằng việc ấy có liên hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của người mất. Ví dụ,
đối với một người tu tập theo pháp Dzogchen hay một pháp nào khác thì sau khi
chết họ tiếp tục quán tưởng Tánh không và thần thức của họ duy trì lại trong thể
xác rất lâu, cho dù họ không hề luyến ái tấm thân ngũ uẩn này.
Hỏi: Các ngài có thể cho
biết khi nào thì thần thức rời khỏi thể xác? Những dấu hiệu nào cho chúng ta
biết rõ điều này?
Ðại sư Kirti Tsenshab
Rinpoche: Một lần nữa chúng ta lại thảo
luận về hai hạng người thoát xác sau khi chết. Bây giờ tôi sẽ không đề cập đến
hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi chết mà chỉ nói đến hạng người
có phần tinh tế thần thức lưu lại trong thi thể nhiều ngày. Người ta nói
rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra khỏi xác thì trên thi thể họ sẽ có
một điểm nóng được tụ lại duy nhất có màu đỏ hoặc
màu trắng, điểm nóng tụ lại ở đâu thì thần thức sẽ thoát ra ở chỗ đó. Ví dụ, nếu
điểm nóng hội tụ ở đỉnh đầu thì chúng ta tin rằng người ấy sẽ tái sinh
vào cõi lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân thì chắc chắn người ấy sẽ đọa vào hạ
giới. Dấu hiệu cho biết khi thần thức thoát xác sẽ có một ít máu chảy ra ở lỗ
mũi hoặc tinh dịch thoát ra từ bộ phận sinh dục.
Tuy nhiên, có một số người không thấy
dấu hiệu này, đó là những người chết đột ngột vì tai nạn hay bị bệnh tim. Dấu
hiệu này chỉ tìm thấy ở những người có tiến trình chết chậm và lâu.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Hầu
hết người nào bị chết vì bệnh nặng thì khi thần thức rời khỏi thể xác đều có dấu hiệu máu hoặc chất nước vàng chảy
ra từ lỗ mũi hoặc bộ phận sinh dục. Khi thần thức thoát ra thì thể xác mới có
mùi hôi. Ðức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện với các bác sĩ nổi tiếng ở phương
Tây về vấn đề thần thức rời khỏi thể xác khi bệnh
nhân tắt thở. Các bác sĩ đã trắc nghiệm và nói rằng họ đã thấy một làn
khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó trên thân của người chết. Kết quả này
được kiểm tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách cẩn thận.
Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước
vàng đều xảy ra đối với những người chết vì
bệnh nặng. Tuy nhiên, thi thể người ấy thường được di chuyển quá nhiều trước khi
thấy những dấu hiệu này, vì vậy những trường hợp như thế tuyệt đối không bao giờ
xảy ra. Ở Tây Tạng, theo tập quán truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn
hoặc bảy ngày ngõ hầu giúp cho thần thức có đủ thời
gian để thoát xác. Trong thời gian chờ đợi này, các lễ kỵ siêu cho người
quá cố được tiến hành một cách nghiêm mật.
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Bạn có thể biết khi thần thức thoát xác dựa vào sự biến đổi
của thi thể. Khi thần thức còn lưu lại trong thể xác thì bạn cảm thấy người ấy
chưa chết thật sự, nước da của họ còn tươi và sáng lạ thường, giống như họ
đang nằm ngủ. Nhưng một khi thần thức đã
thoát xác thì lập tức ta thấy thi thể thay đổi khác
liền, nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm
giác đó là một xác chết chứ không phải là một người nữa.
Những kinh nghiệm về làn khói hoặc
giọt máu xuất ra khi thần thức thoát xác không phải lúc nào cũng nhìn thấy được,
chúng ta chỉ gặp ở một số ít người. Trong số những người này, khi thần thức
thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi và ở hạ bộ. Có một vị cao tăng Tây
Tạng viên tịch, khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền chảy ra hai dòng
chất dịch lỏng, một bên thì màu đỏ còn bên kia màu trắng.
Hỏi: Có đúng là cho đến khi thần thức thoát xác, thi thể mới
bắt đầu có mùi hôi và có dấu hiệu thối rữa?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche:
Sự thật đúng như thế.
Hỏi: Khi một người chết
nhưng thần thức vẫn còn lưu lại trong thể xác. Vậy người ấy có cảm giác gì không
nếu bị người khác đụng chạm
đến?
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Họ sẽ
không có cảm giác gì cả. Khi phần khô của thần thức tan mất thì người ấy không
còn cảm giác nữa. Ðối với các vị Tăng chứng đắc
và người Phật tử có tu tập, khi chết, phần tinh tế của thần thức còn lưu
lại trong thể xác, thì họ có thể chết ở trong tư thế ngồi thiền, đến khi thần
thức thoát xác, thi thể của vị ấy mới ngã xuống.
Mấy mươi năm trước, khi những người
Tây Tạng đầu tiên đến tỵ nạn tại tỉnh Buxa của Ấn Ðộ, một Phật học viện của Phật
giáo Tây Tạng nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết. Sau đó, vì
vụ này mà chính quyền Ấn và người dân địa phương
chỉ trích rất gắt gao đối với người dân Tây Tạng, h? nói rằng các tu sĩ
Tây Tạng chỉ biết chém giết nhau mà thôi. Về sau có một Lama đức hạnh tên là
Gyari Rinpoche, đến từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đã viên tịch tại Ấn với
tư thế ngồi kiết già trong bảy ngày; Người Ấn được
mời đến chứng kiến cái chết lạ thường của vị Lama này và họ cố gắng giật
mạnh khăn trải giường để làm cho thi thể của
ngài ngã xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho tượng, dù trải qua bảy ngày
nhưng thể xác của ngài vẫn không có mùi hôi. Sau sự kiện này, quan điểm của họ
về các Tăng sĩ Tây Tạng đã thay đổi hẳn, họ không
còn phê bình, chê bai nữa.
Hỏi: Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể trước khi thần
thức thoát xác có ảnh hưởng gì đến tâm thức của người chết không? Vì ở trong
bệnh viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết đập, còn nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thi. Sự
can thiệp này có hại cho thần thức người chết không?
Ðại sư Kirti Tsenshab
Rinpoche: Trước hết, nếu đó là một người
tinh thông có năng lực thiền định, họ cố gắng luyện tập thiền định sau khi trút
hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ ở trong trạng thái
thiền định thì sẽ khuấy rối tiến trình tập trung thần thức của họ. Do đó, tốt
nhất là không đụng chạm đến thể xác họ trong thời
điểm ấy. Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng không nên
đụng đến thi thể của họ cho đến ba ngày sau. Nếu
một người đang ngủ say, nhưng ta lay mạnh thì họ sẽ thức giấc ngay, người chết ở
đây cũng vậy, khi chạm đến họ, không có tác hại gì cho thể xác, nhưng có hại rất
lớn đến thần thức của họ.
Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm khăn trải giường
và nệm từ giường của người vừa chết cho sạch sẽ thì cũng nên thao tác nhẹ
nhàng. Tương tự, nếu người chết còn mở mắt và hả miệng, nên yêu cầu một người
thân trong gia đình đến trước tử thi bày tỏ lòng kính trọng cuối cùng rồi giúp
họ khép mắt và miệng lại để trông dễ nhìn hơn. Ðối với những người bị dị tật,
tay chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải kéo thẳng ra để dễ dàng đưa vào quan tài.
Nhưng mỗi cử chỉ đối với người chết đều phải nhẹ
nhàng và thực hiện ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối
cùng.
Hỏi: Có lợi ích gì khi
chúng ta chạm hoặc kích thích trên đỉnh đầu của
người hấp hối và người chết, đặc biệt là người vừa chết?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche:
Khi một người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhất để thần thức thoát ra mà ngài Lama Je
Tsong Khapa gọi là "chiếc cổng vàng". Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng
đường này thì chắc chắn họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành.
Nhưng nếu thần thức thoát ra bằng các
đường ở hạ bộ, từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh vào ác đạo, như
cõi ngạ quỷ hay loài cầm thú. Vì thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp
xúc phần hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ thì thần
thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra ngoài
Ðại sư Dilgo Khyentse
Rinpoche: Tiếp xúc vào đỉnh đầu của người
hấp hối được xem như là đang làm phép "chuyển di tâm thức" cho họ. Thực
hiện phép này không phải là một vấn đề đơn giản,
phải làm cẩn thận để giúp cho thần thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu,
chỗ mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahma. Nếu đầu của người ấy không bị sói thì
chúng ta phải nhổ năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy và dùng ngón tay trỏ cạo
nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm giúp cho thần thức của người chết biết
chỗ mà thoát ra ngoài. Kỹ thuật này cũng thường giúp cho chất nước vàng chảy ra
từ cửa ấy, dấu hiệu đó chứng minh cho phép chuyển
di tâm thức đã thành công.
THẦN THỨC PHẢI Ở TRONG TRẠNG THÁI TRUNG ẤM BAO LÂU
THẦN THỨC PHẢI Ở TRONG
TRẠNG THÁI TRUNG ẤM BAO
LÂU
---o0o---
Hỏi: Sau khi thần thức rời
khỏi thể xác và bước vào giai đoạn thân trung ấm
giữa đời này và cuộc sống kế tiếp, phải mất bao lâu trước khi thần thức
này gá vào một bào thai mới?
Ðại sư Kirti Tsenshab
Rinpoche: Thời gian kéo dài trung bình để
một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là bảy tuần lễ. Cứ sau bảy ngày
thì thân trung ấm chết đi và rồi tái sinh lại trong một thân trung ấm khác cho
đến khi nó bắt được liên lạc với cha mẹ tương lai
mới đi tái sinh. Tuy nhiên có nhiều người sau khi chết chỉ mất hai giây họ đã đi
tái sinh vào cảnh giới khác.
Lý do tại sao thần thức phải chịu
đựng trong tiến trình trung gian sinh và tử giống như ma quỷ này? Vì do
nghiệp thiện và ác của người ấy gây tạo đời trước
sẽ quyết định dẫn dắt họ đến nơi thích hợp, do đó phải cần có thời gian nhất
định để tìm kiếm cho một đời sống tương lai.
Ðại sư Dilgo Khyentse
Rinpoche: Bốn mươi chín ngày là thời gian dành chung cho tất cả mọi
người, nhưng có một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một
thời gian rất lâu, có lúc đến bảy năm mới đi tái
sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ
trở thành ma quỷ. Thông thường khi một người đang
hấp hối, chúng ta đọc kinh cầu nguyện hoặc nhắc nhở, họ đ?u nghe thấy,
thậm chí người bất tỉnh cũng thế. Ðối với vong linh trong cõi trung ấm cũng có
khả năng nghe, cảm nhận và hiểu được khi chúng ta
đọc sách "Tử thư Tây Tạng" (Tibetan Book of the Death)
để cảnh tỉnh họ. Vì thế, trong bảy tuần lễ đầu
sau khi chết là thời gian rất quan trọng để cho người sống làm mọi việc
có thể giúp sức tái sinh cho người chết.
Còn thần thức của những bé chết trước
khi sinh (bị sẩy thai), trong lúc sinh hoặc tuổi còn nhỏ, sẽ đi qua các
trạng thái trung ấm một lần nữa và nhận thấy một hiện hữu khác. Cha mẹ của họ
cũng có thể tạo phước (meri-forious acts) để
hồi hướng công đức cho vong linh hoặc thực hiện các pháp dành cho người
chết như thọ trì thần chú Kim cương Tát đỏa một
trăm âm (Hundred - syllable mantra of Vajrasattva), đủ túc số 100 biến, cúng dường đèn, bố thí,
phóng sinh các loài vật... để giúp cho thần thức của hài nhi đó được nhẹ nhàng và dễ dàng tìm lối tái
sinh.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Không thể xác định thời gian chính xác là bao
lâu. Nếu một người không phải tái sinh vào cõi người thì họ liền thác sinh đến
cõi khác chứ không qua giai đoạn thân trung ấm. Nhưng nói chung một người có thể
ở trong cõi trung ấm trung bình là 49 ngày, có người ở một ngày, bốn ngày và có
khi bảy ngày... Trong thời gian trụ lại trong trung ấm thân, vong linh tìm kiếm
một đời sống tương lai khế hợp với nghiệp của mình để tái sinh.
Ðại sư Gerje Khamtul Rinpoche:
Ðối với một số người thời gian dài nhất là bảy tuần lễ, nhưng có một số
khác chỉ ở trong thân trung ấm ba ngày. Phần lớn mọi người đều phải đầu thai sau hai mươi mốt
ngày.
Không phải ai chết cũng qua giai đoạn
thân trung ấm. Có một số người tu tập chứng ngộ, có một đời sống phạm hạnh
và lợi lạc, khi chết họ trực tiếp tái sinh vào cảnh giới tốt lành chứ
không qua giai đoạn trung gian này. Một người phạm tội ngũ nghịch (giết cha
mẹ, phá hoại chánh pháp...), hoặc có một đời
sống tiêu cực, ác độc... thì sẽ đọa liền vào địa ngục, hoặc một cõi xấu
nào đó chứ không qua giai đoạn thân trung
ấm.
QUAN ÐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ VIỆC TỰ SÁT
QUAN ÐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
VỀ VIỆC TỰ SÁT
---o0o---
Hỏi: Xin cho biết quan điểm của Phật giáo như thế nào về vấn
đề tự sát?
Ðại sư Kirti Tsenshab
Rinpoche: Ðối với người Phật tử, tự giết mình là một tội rất lớn. Vì
sao? Bởi vì có được thân người là một trong những điều khó và làm bị thương hoặc
hủy diệt thân ấy là một điều sai lầm rất lớn. Tự tử thường bắt nguồn từ kết quả
của những cơn nóng giận. Chỉ có giận dữ người khác mà không làm gì được nên trở
lại giết chết mình. Ðối với một người không theo đạo Phật cũng thế, tự tử là một
hành vi đáng trách và tội lỗi. Sau khi chết, thần thức của họ không có một nơi
nào khác là phải lao theo nghiệp ác của mình. Vì thế chúng ta phải nghĩ cách làm
thế nào để giúp họ vượt qua những cơn khủng hoảng tinh thần và nỗi khổ đau của
họ. Ở trong tình trạng rối loạn, bế tắc và tuyệt vọng, cơn khủng hoảng trầm
trọng này có thể đẩy con người đến chỗ tự
sát.
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Nhà Phật cho rằng tự tử là một điều tồi tệ nhất mà con người
có thể làm. Ðây là một hành động tiêu cực khiến cho thần thức của kẻ ấy gặp khó khăn trong việc tái sinh. Theo truyền thống của Phật
giáo Tây Tạng thì có hàng trăm vị nam và nữ thần ở trong thân của chúng
ta, nếu phạm vào tội tự sát, đồng thời ta cũng giết cả họ. Còn theo Phật giáo
Ðại Thừa thì dưới chân của mỗi sợi tóc thì có hàng ngàn tế bào sống khác..., khi
ta giết ta thì đồng thời ta cũng hủy diệt chúng.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Theo
Phật giáo thì tự tử là một hành vi tiêu cực và là nguyên nhân khiến cho thần
thức của người ấy rơi rớt vào cõi xấu.
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche:
Khi một người tự tử, thần thức của họ
thường phải đi theo nghiệp xấu của mình, rất có thể họ sẽ bị một ác ma
bắt lấy và chiếm đoạt sinh lực. Ðể giúp cho những người này, các vị thầy có năng
lực phải làm nhiều lễ cầu siêu đặc biệt như năm
cuộc lễ và những nghi thức khác để siêu độ thần thức cho người
chết.
Hỏi: Trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam, có nhiều Tăng
sĩ đã tự thiêu, với động cơ là làm cho thế giới chú ý đến nỗi khổ đau chiến tranh ở VN. Việc tự thiêu của họ
phải chăng là hành vi tiêu cực?
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Các vị Bồ Tát được phép thực thi một số hành vi
mà người thường cho đó là tiêu cực. Tuy nhiên, Phật giáo Nguyên thủy phản đối
hành động này, vì thế tự tử luôn được xem là hành vi tiêu cực trong truyền thống
này. Nếu bạn phân tích kỹ hơn, xem động cơ khiến
các vị Tăng này tự thiêu là gì thì chúng ta mới phán xét là tiêu cực hay
tích cực. Trong một bộ kinh của Phật giáo có ghi lại câu chuyện về một vị Tỳ
kheo trẻ bị một phụ nữ ép buộc phải lấy bà ta. Vị này biết rõ rằng nếu mình chịu
lấy thì sẽ phá bỏ giới luật; mặt khác, nếu không chịu lấy, bà ta sẽ vu khống
rằng mình đã có những hành vi tồi bại. Vì thế, để giải quyết tình cảnh bế tắc
này mà không phạm giới, vị ấy quyết định tự kết
liễu đời mình. Suy nghĩ như thế rồi, vị ấy
giả vờ đồng ý và nói với bà ấy đợi một chút. Vị ấy vào phòng trong, đóng
cửa và tự đâm vào cổ họng mà chết. Trước khi tắt thở, vị ấy kính lễ mười phương
Tam Bảo và nói rằng: "Vì tôn kính Tam Bảo và gìn giữ giới hạnh mà con quyết
định từ bỏ thân này".
Trong
Kinh nói đây là hành vi tích cực và có công đức. Nếu trường hợp các Tăng sĩ Việt Nam vì động cơ muốn
cứu vãn Chánh pháp của đất nước họ không lún sâu vào chiến tranh, vì một
động cơ cao cả như thế thì hành vi tự thiêu của họ không thể cho là tiêu cực mà
phải được xem là hành vi của các vị Bồ Tát.
Hỏi: Quan điểm của Phật giáo như thế nào về việc chấm
dứt mạng sống trước khi người ấy chết? Bệnh nhân yêu cầu để cho họ chết tự nhiên
bằng cách không dùng thuốc hay những phương pháp y học nào đó vì họ quá đau đớn về thể xác và tinh thần trong khi việc điều trị
không mang lại kết quả.
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Trong trường hợp này rõ ràng bạn muốn đem lại lợi ích cho người khác, chấm dứt sự đau đớn của
họ. Tuy nhiên, cần phải xem xét cẩn thận chứ đừng nên hành động thiếu suy
nghĩ, bởi vì giết một mạng người là một tội ác, vì vậy, dù đau đớn dữ dội, thay vì để cho họ chết thì cố gắng
dùng hết khả năng để điều trị cho họ, có thể cho họ
uống thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần chẳng hạn. Mặt khác, nên nhớ rằng thân người rất khó khăn mới có được. Do vậy, các nhà
điều trị phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định việc này.
Ðại sư Geshe Lamrimpa:
Người ta nên tiếp tục chữa trị để giữ mạng sống cho họ. Nếu người ấy
chết với trạng thái tâm giận dữ, bất an, tiêu cực hay hôn mê thì sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong việc đầu thai và sẽ gặp bất
lợi cho đời sống tương lai của họ. Tuy nhiên, nếu cho họ uống thuốc để rút ngắn
mạng sống thì cũng không thích hợp.
Hỏi: Ðôi khi họ muốn được
chết thì sao?
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Họ
muốn chết trước thời hạn, bởi vì họ không chịu đựng
nổi sự đau đớn ngay trong đời này. Nhưng họ đâu biết rằng nỗi khổ đau ấy họ vẫn
phải đối mặt trong đời sau, vì thế, tốt hơn hết nên giúp họ điều
trị.
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche:
Sử dụng máy móc để kéo dài mạng sống
của một người không còn cơ may lành bệnh là điều vô lý và hãi hùng. Tốt hơn cứ
để cho họ chết một cách tự nhiên trong bầu không khí yên bình. Khi sử dụng máy
móc mà không có hy vọng hồi phục cho người bệnh thì việc chấm dứt điều trị bằng máy không phải là tội ác. Rõ ràng
không cần thiết để kéo dài sự sống nhân tạo cho họ. Theo cách nhìn của nhà Phật,
thì chúng ta nên làm bất cứ điều gì có thể để trợ
giúp cho người ấy đối phó với sự xuống tinh thần trong giờ phút đau đớn
và sợ hãi, đem lại cho họ niềm bình an vào phút cuối của cuộc đời.
LÀM GÌ ÐỂ CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT?
LÀM GÌ ÐỂ CHUẨN BỊ CHO CÁI
CHẾT?
---o0o---
Hỏi: Có phương pháp nào
tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mình không?
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche:
Phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái
chết của mỗi người là nên tu tập tâm linh trong suốt cuộc đời
mình.
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche:
Một lần nữa tôi phải đề cập đến hai hạng
người, thứ nhất là tín đồ theo đạo Phật, thứ hai là những người không có
đạo.
Ðối với hạng người thứ nhất đã từng
quy y và tu học theo Chánh pháp, khi họ biết rằng cái chết đang đến với họ thì đó là thời gian giúp họ tinh
tấn hơn trong việc tu tập của mình.
Ðối với hạng người thứ hai, chưa hề
nghĩ gì về con đường đạo trong cuộc đời họ,
nên khuyên họ cố gắng phát khởi tâm đạo, tâm
đạo ở đây nghĩa là suy nghĩ về điều tốt, nghĩ và cầu mong điều tốt đến với người
khác. Ðây là cách tốt nhất dành cho những người không có đạo chuẩn bị cái
chết.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche:
Giống như ta đi đến một nha sĩ, đó là điều
không ai tránh khỏi, việc cuối cùng cũng phải xảy ra, chết cũng thế, vì
vậy có gì tốt đẹp bằng nếu ta bắt đầu suy nghĩ về
nó ngay bây giờ. Ð? biết rõ về cái chết ta nên hỏi các bậc thầy của mình,
những người có kiến thức về cái chết, các ngài sẽ cho chúng ta biết con người sẽ
chết như thế nào. Nếu ta có những hiểu biết như thế, ta thật sự không sợ chết và
nó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Nếu một người đang chuẩn bị một nơi tái sinh hạnh phúc
thì sẽ loại bỏ tham sân si và tịnh hóa mười ác nghiệp nếu đã phạm phải
trong quá khứ, bày tỏ sự hối tiếc và lập nguyện không vi phạm giới pháp trong
tương lai. Ðây là lời dạy chung cho tất cả mọi chúng sinh. Ðối với một người đã
thọ giới để tu hay một hành giả Mật giáo, họ phải sám hối và tịnh hóa tất cả
giới luật và lời phát nguyện mà họ đã phá bỏ.
Mặt khác, nếu muốn đời sau
giàu sang thì phải thực hành pháp bố thí, muốn được hạnh phúc thì phải
giữ giới hạnh, muốn được trường thọ nên tránh sát sinh, muốn được ngưỡng mộ và
tôn kính phải tu pháp nhẫn nhục. Muốn giải thoát thì tu tập sáu hạnh của Bồ Tát,
v.v... Nói chung, nếu chúng ta loại bỏ hết ác nghiệp, tịnh hóa hết tất cả nghiệp
chướng và hướng đến hành vi công đức, tạo cho ta có
một sức mạnh hỷ lạc về nội tâm. Khi cái chết đến với ta, chính năng lực công đức
và giới hạnh ấy sẽ tiếp sức cho ta đi tới một đời sống khác an toàn và
hạnh phúc. Ðó là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi
người.
Hỏi: Ở trong Phật giáo có
một vài phương pháp thiền quán niệm về cái chết và kể lại tiến trình chết. Loại
thiền này có lợi ích gì không ?
Theo triết học của Phật giáo, phương
pháp thiền quán tưởng về cái chết là nhắm vào mục đích để ta ý thức được cuộc đời là vô thường và ta
sẽ trở nên quen thuộc với những diễn biến khác nhau về cái chết mà con người sẽ
phải đi qua. Ðiều đó rất có ích. Trong pháp tu này, hành giả biết rõ những dấu
hiệu xảy ra trong tiến trình đưa đến cái chết như
sự suy yếu của sáu giác quan, và sự tan rã dần của thân tứ đại... Rồi tiếp đó, ta cũng nhận ra rằng khi ta tái sinh
vì sự hỗn hợp giữa tinh cha, huyết mẹ và thần thức của ta; một lần nữa,
ta lại thấy cái chết đến với ba thứ này, tiến trình sinh tử này không dứt cho
đến khi ta giác ngộ. Theo triết học Phật giáo Tây Tạng thì luyện tập quán tưởng
về cái chết là một pháp tu rất quan trọng.
***
CHỦ NGHĨA VỊ THA
LÀ TRÁI TIM CỦA PHẬT
GIÁO
Hỏi: Ở phương Tây, nhờ
Phật giáo mà trong những năm gần đây có sự phát
triển rất nhanh về phong trào thiết lập những Tiếp Dẫn Ðường để chăm sóc cho những người sắp lâm chung. Các ngài có
nghĩ rằng chúng ta có thể đem lại lợi lạc cho người chết
không?
Ðại sư Garje Khamtul
Rinpoche: Tôi cho rằng phong trào này rất tốt bởi vì người phục vụ và
người được chăm sóc đều biết rõ mình cuối
cùng cũng đi đến cái chết, do đó khi còn
sống trên đời này họ cố gắng làm mọi điều tốt đẹp
và nhất là giúp đỡ những người sắp lâm
chung. Giống như khi bạn đi máy bay, biết rằng bạn đang ở trên không
trung và có cảm giác sợ hãi. Nhưng khi bạn thấy xung quanh có đủ tất cả những tiện nghi để giúp đỡ bạn thì bạn
cảm thấy như mình đang ở nhà, bạn cảm thấy hạnh phúc về điều đó. Tóm lại, tôi thấy rằng các Tiếp Dẫn Ðuờng
ở phương Tây rất tốt, vì nó giúp cho người sắp lâm chung cảm thấy an toàn, tự
tin và không sợ hãi nữa.
Ðại sư Kirti Tsenshab
Rinpoche: Ý tưởng thành lập các dưỡng Ðường Tiếp Dẫn cho người sắp lâm
chung là biểu trưng cho lòng bi mẫn vô biên của chúng ta đối với người sắp chết. Ðây là một phong trào
rất tốt mà tôi cho rằng phát triển nhiều Trung tâm thêm chừng nào tốt chừng ấy.
Ở phương Tây xưa nay không quan tâm đến vấn đề tu
tập tâm linh, nên người sắp chết rất cần sự nâng đỡ về tinh thần ở cuối đời,
điều này giúp cho họ có một sức mạnh nội tâm để vượt qua nỗi hãi hùng của
cái chết.
Cuối cùng, trái tim của Phật giáo là
lòng vị tha, nghĩ đến người khác và giúp đỡ cho họ.
Chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể đem lại sự an ủi, nâng đỡ tinh
th?n cho họ mà xã hội đã một thời bỏ rơi và thiếu quan tâm.
Từ đáy lòng mình, tôi muốn nói
lời cảm ơn Thầy (người thực hiện cuộc phỏng vấn này) rất nhiều và tôi phải nói
rằng Thầy đừng nghĩ rằng mình đang đơn độc với
trong công việc này. Vì tất cả những gì mà Thầy đang làm hiện nay là
đại diện cho một đường hướng hoạt động của Phật
giáo trong thời hiện đại. Chư Phật, Bồ tát và các vị Thiên thần Hộ pháp
luôn ủng hộ và luôn ở phía Thầy.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)