CHẾT,
THÂN TRUNG ẤM VÀ TÁI
SINH
---o0o---
1.
CHẾT:
Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam
độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành,
thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
Khi con người chết, nếu có những khuynh hướng như thế sẽ tiếp tục đầu thai trong
vòng sanh tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp
thiện và ác ở kiếp sống vừa qua.
Một số người chết vì kiệt sức hoàn
toàn, một số khác chết do hao mòn phước đức, chết
không đúng thời điểm hay còn gọi là bất đắc kỳ tử.
Một người chết thường ở một trong ba
trạng thái tâm: Thiện, Bất thiện và Vô ký. Trong trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán tưởng về Tam
Bảo hay một vị thầy đức hạnh của mình, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh
tín tâm. Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng niềm hỷ lạc vô biên để thoát khỏi
sự ràng buộc của những phiền não tham dục, luyến ái, thay vào đó bằng
cách quán niệm Tánh không và Tâm từ bi. Ðiều này có thể tự người hấp hối làm
hoặc qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối, một người chết
với tâm thanh tịnh như thế thì việc tái sinh
của họ sẽ được cải thiện. Ðây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết.
Mặt khác, ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người
đang hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi. Ðôi khi người thân
và bạn bè tập trung quanh tử sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi thảm,
sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái và quyến luyến. Nếu người chết với tâm
niệm bất thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai
vào cõi xấu, điều này rất nguy hiểm. Trong bất cứ trường hợp nào, trạng
thái tâm của người hấp hối bao giờ cũng quan trọng trước khi chết. Bởi vì ngay
cả một người tu luyện tâm linh mà bị quấy rầy vào thời điểm ấy cũng làm cho
phiền não phát khởi, chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp và đó là động
cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào một cõi bất
lợi như bao đường ba ác: Ð?a ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh. Vì thế, điều tối
quan trọng cho cả người hấp hối lẫn người sống là tránh tạo ra những tình huống
gây bất lợi cho tâm thức của người chết. Chúng ta cần biết điều này.
Những người chết trong trạng thái tâm thiện đều có cảm giác mình từ trong bóng tối
thoát ra ánh sáng, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh phúc. Có nhiều trường hợp
người bệnh rất nặng, đến lúc gần chết đã nói ra những điều tốt đẹp thoải mái
thay vì nói đến căn bệnh của họ. Còn đối với người bệnh tuy nhẹ nhưng nỗi
sợ hãi quá lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng hốt, nên có cảm giác
mình từ nơi ánh sáng đi vào trong bóng tối và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào cảnh
khổ đau.
Một số người, thân thể ấm áp của họ
đã bị suy yếu qua cơn bệnh nên họ trở nên khao khát muốn được hơi nóng,
bằng cách này củng cố thêm cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa ngục
nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng. Những người khác thích cái mát lạnh, thích
uống nước lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ hướng vào nơi như địa
ngục hàn băng hay một nơi có khí hậu lạnh. Vì thế điều rất quan trọng là tránh
khởi những ý niệm tham ái trong lúc chết và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.
2. THÂN TRUNG ẤM :
Thân trung ấm (bardo/intermediate
state) được hiểu nôm na là sự sống sau khi chết
trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào đó
(Trời, Người, A tu la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh). Thân trung ấm là
thân không có xác thịt mà chỉ lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần
thức thoát ra khỏi xác thì trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích
hợp với nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung
ấm chưa tìm thấy một nơi tương ứng với mình để tái
sinh thì nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một
thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái
sinh.
Trong thời gian ở lại với cõi trung
ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra mình đã chết, họ quay lại
gia đình để gặp những người thân nhưng không ai hay
biết, họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở
lại bình thường như lúc còn sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra họ không có
bóng hình trên đất, không có ảnh trên gương, họ mới biết là mình đã chết. Giờ
đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đã tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay
khổ đau trong suốt đời họ hiện ra trước mắt như một cuộn phim. Nếu là
vong linh của người vốn từng tạo phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm
giác yên bình, thanh thản và dễ dàng để tìm đường tái sinh vào cõi lành. Còn nếu
những người từng tạo ra ác nghiệp, sống cuộc đời tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ
hãi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cõi trung
ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu
thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của mình, thì người ấy chọn
lựa cho mình một cảnh giới tốt để tái sinh, ngõ hầu tiếp tục tu luyện hoặc vì
hạnh nguyện cứu độ chúng sinh. Bằng như trái lại, thì không có sự lựa chọn nào,
dù muốn hay không thì thần thức của người ấy cũng buộc phải thọ sinh vào một
cảnh giới nào đó khế hợp với nghiệp lực của mình.
3. TÁI SINH:
Nếu được tái sinh trở lại cõi
người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của mình đang nằm với nhau.
Nếu người ấy tái sinh thành người nam thì phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ
mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở thành người nữ thì ngược lại, thần thức
người khởi tâm muốn giao hợp với người kia, nhưng lúc ấy họ chỉ thấy bộ phận
sinh dục của người kia (nam hay nữ) mà không thể thực hiện được, do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đã làm
chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách nhập
vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với hình dáng của một con người. Khi
ấy tinh cha và huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người ấy, họ tự nhiên và
dần dần phát triển thành một con người.
Như đã nói ở trên, khi gần đến
ngày tái sinh, thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh tương lai, thậm
chí nơi ấy là địa ngục. Ví dụ, một đồ tể nhìn thấy
một con cừu, anh ta muốn đuổi bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta
thấy bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận đã làm kết liễu thân trung
ấm và thần thức của anh ta rơi vào Ðịa ngục hay Súc sinh.
Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này
sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc cấu tạo tâm tánh của con người. Nghiệp được hình thành
dưới sự tập hợp của tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh
(ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ của mọi ác nghiệp. Do ác
nghiệp này mà khiến cho con người trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Ðể thoát
khỏi vòng tuần hoàn khổ đau này con người phải nỗ lực tu tập đoạn diệt cho bằng được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị
tận diệt thì ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt thì sinh, lão, bệnh,
tử, sầu bi khổ ưu não cũng không còn, khi ấy con người mới thật sự thoát khỏi
vòng vây của sinh tử luân hồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét