Chuẩn bị cho một chuyến
đi...
---o0o---
Chết là một sự thật hiển
nhiên mà cuối cùng ai cũng phải đối mặt dù mình có muốn hay là không. Ðó là một
chân lý mà mỗi chúng ta phải ghi nhớ và chấp nhận, để khi nó đến, ta không còn phải ngạc nhiên, lo âu
và sợ hãi. Đoàn Như Khuê (1) từng nói:
"
Biển khổ mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió
Rốt cuộc rồi trong bể thảm thôi"
Thật vậy trong cái biển khổ mênh mông
ấy, chúng ta chỉ là những "khách trần" lai vãng, đến rồi đi, và nếu chết vẫn chưa hết, ta sẽ phải tiếp tục
trôi lăn trong "biển khổ" sinh tử luân hồi này. Thiền Sư Quy Sơn
Linh Hựu từng nhắc nhở rằng: "Vô thường già, bệnh, chết không hẹn trước với
ta", tức là cái chết sẽ đến với ta bất cứ giờ phút nào. Một điều quan trọng
mà tất cả chúng ta cần phải khắc trong lòng là sau khi chết, thần thức của ta sẽ
không mất, mà nó được lưu chuyển sang một đời
s?ng khác. Theo giáo lý nhà Phật, sau khi chết nếu ta chưa đạt Ðạo, giác
ngộ và giải thoát, ta sẽ có thể tái sinh, đầu thai vào một trong sáu cõi giới:
Cõi trời, Cõi người, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỹ và Súc Sanh. Kết quả được thác sanh vào cõi nào đã được
ta thiết lập ngay trong đời sống vừa qua, có nghĩa
là trong đời sống hiện tại hôm nay, chính ta đang tạo dựng một đời sống ngày mai
của ta vậy. Do đó chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để có thể mang theo
làm hành trang cho riêng mình trong cuộc hành trình vô tận đang chờ đợi ta ở phía trước.
Ta phải chuẩn bị điều
gì?
Ðó là một câu hỏi lớn, không dễ trả
lời. Tuy nhiên, như ở đầu tập sách này, các bậc Thầy người Tây Tạng đã khuyên
dạy chúng ta rằng: phương pháp tốt nhất để
chuẩn bị cho cái chết là mỗi người nên làm điều lành và tránh làm điều ác trong suốt cuộc đời mình. Lời dạy
này đã cho chúng ta hiểu rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp ác mà mình
tạo ra trong suốt cuộc đời, từ lúc mới sinh đến khi
nhắm mắt lìa đời, sẽ là hành trang mà ta sẽ phải mang theo sau khi ta
trút hơi thở cuối cùng ở kiếp này và chính nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trong các đời sống vị lai.
Do thấy rõ được cảnh khổ của chúng
sinh trong sáu cõi giới luân hồi này, mà Bồ tát Ðịa Tạng đã hơn một lần nhắc nhở
chúng ta về những quả báo khổ đau mà chúng
ta sẽ phải gánh chịu ở tương lai, nếu ta phạm phải ở kiếp này:
Ngài dạy rõ "Nếu gặp kẻ sát hại loài
sinh vật, quả báo sẽ bị chết yểu; nếu người trộm cướp, sẽ bị quả báo nghèo cùng
khốn khổ; nếu người tà dâm (không chung thủy với vợ hoặc chồng), sẽ bị quả báo
làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương; kẻ nói lời thô ác, sẽ bị quả báo quyến thuộc
hay kình chống nhau; nếu kẻ hay khinh chê, sẽ bị quả báo không lưỡi hay miệng
lở; nếu người thường nóng giận, sẽ bị quả báo thân hình xấu xí; nếu người có tánh bỏn xẻn, sẽ bị quả báo cầu muốn không được
toại nguyện; nếu người thường tổ chức săn bắn, sẽ bị quả báo kinh hãi điên
cuồng, mất mạng; nếu kẻ trái nghịch với cha mẹ, sẽ bị quả báo trời đất tru lục;
nếu người đốt núi rừng cây cỏ, sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết; nếu cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở ác độc, sẽ bị quả báo
thác sinh trở lại hiện đời sẽ bị roi vọt; nếu người dùng lưới bắt chim
non, sẽ bị quả báo thân quyến chia lìa; nếu người hủy báng Tam Bảo, sẽ bị quả
báo đui, điếc, câm, ngọng; nếu người hay
khinh chê giáo pháp, sẽ bị quả báo ở mãi trong ác đạo; nếu kẻ lạm phá của Thường
trụ, chùa chiền, sẽ bị quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục; nếu kẻ làm ô nhục
người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già, sẽ bị quả báo ở mãi trong loài súc
sanh; nếu kẻ dùng nước sôi, hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật, sẽ bị quả báo
phải luân hồi thường mạng lẫn nhau; nếu kẻ phá giới phạm trai, sẽ bị quả báo làm
cầm thú đói khát; nếu người phung phí, phá tổn của cải một cách phi lý, sẽ bị
quả báo tiêu dùng thiếu hụt; nếu kẻ thường tự cao kiêu mạn, sẽ bị quả báo hèn
hạ, bị người sai khiến; nếu kẻ đâm chọc gây gổ, sẽ
bị quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi; nếu kẻ tà kiến hay mê tín dị đoan,
sẽ bị quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh..." (lược theo Phẩm thứ hai, Kinh
Ðịa Tạng, bản dịch của HT Trí Tịnh).
Nếu ta biết rõ những nguyên nhân và
kết quả trên, ta phải cố gắng tránh tạo những ác nghiệp(tham lam, sân hận, si
mê, giết hại sinh vật, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu...), và nỗ lực làm
những điều thiện (không tham lam, không nóng giận, bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, cúng dường, phóng sinh...) để
đem an lạc, hạnh phúc cho mình và cho người. Bài học công bằng mà tất cả
chúng ta đều thuộc lòng, đó là, nếu mình đem hạnh phúc cho người, thì mình sẽ
được an vui, ngược lại, đem khổ đau cho người,
thì chính mình sẽ chịu sự bất hạnh. Niềm hạnh phúc và an lạc hoặc sự bất
hạnh và khổ đau , đã, đang và sẽ được chính ta tạo
ra và chính ta thừa hưởng ngay trong đời sống này cũng như sau khi
chết.
w Những điềm báo trước khi chết:
Những người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc, tự tại, thong dong giữa hai bờ sống
chết, họ có thể tái sinh về bất cứ cõi giới nào họ muốn. Còn chúng sanh
mê muội, phàm phu tục tử đều phải tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết,
phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về cảnh giới thích ứng với
nghiệp mà mình đã gây tạo. Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định
mệnh, tức là cái đã sắp đặt sẵn mọi chuyện, mình phải đi theo cái có sẵn ấy. Ở đây, không phải vậy, người
Phật tử tin rằng mình là chủ nhân của chính mình, tuy nhiên, một khi mình không
làm chủ được mình để cho ác nghiệp đã được xảy ra,
thì chính cái nghiệp ấy sẽ trở lại điều khiển mình. Do đó người Phật tử
hãy thận trọng trong mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình, từ nơi
đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và cũng từ nơi đó sẽ
đưa chúng ta đến khổ đau.
Theo kinh điển nhà Phật, một người
trước khi chết có những điềm báo trước, có thể tùy theo mỗi người mà có
cảm thọ khác nhau về cảnh giới thiện hay cảnh giới ác, và những điềm này sẽ giúp
cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người quá
cố.
w Những điềm lành báo trước sẽ có thể sinh về Tịnh
độ:
Tâm hồn không bị bối rối
Biết trước ngày giờ chết
Tâm niệm chân chánh không mất
Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần áo.
Tự mình niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm thầm
Ngồi ngay thẳng, chắp tay niệm Phật mà chết
Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà
Có hào quang sáng soi vào thân thể
Nhạc trời vang dội giữa hư không
Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại.
w Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh lên cõi
trời:
Móng lòng thương mến
Phát khởi thiện tâm
Lòng thường vui vẻ
Chánh niệm được rõ ràng
Thân thể không bị hôi hám
Sống mũi không xiên xẹo
Tâm không giận dữ
Tâm không luyến ái tài sản, vợ, chồng, con, dòng họ
Mắt luôn trong sáng
Ngửa mặt lên trời và mỉm cười
w Những điềm báo trước sẽ có thể tái sinh trở lại
cõi người:
Ðến khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành
Thân không đau khổ
Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha mẹ
Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em và bầu bạn
Ðối với việc lành dữ nhận rõ không lầm loạn
Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh
Biết rõ bà con bạn bè giúp đỡ cho mình
Thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng
Dặn dò mọi việc trong nhà trước khi chết
Sanh lòng chánh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến đối diện quy
y.
w Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa vào địa
ngục:
Gặp phải tình trạng con cái và bà con đều nhìn kẻ sắp chết bằng
đôi mắt ghét bỏ
Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ mó hư không
Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng không tùy thuận
Người sắp chết kêu gào than khóc
Ði ra đại tiện, tiểu tiện mà không hay biết
Nhắm nghiền đôi mắt
Thường hay che úp mặt mày
Nằm nghiêng mà ăn uống
Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám
Gót chân, đầu gối luôn run rẩy
Sống mũi xiên xẹo
Mắt bên trái hay động đậy
Hai mắt đỏ ngầu
Úp mặt mà nằm
Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống đất
w Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào cõi
giới ngạ quỹ:
Ưa liếm môi miệng
Thân nóng như lửa
Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống
Mắt thường hay trương lên mà không nhắm
Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ.
Ðầu gối bên phải lạnh trước
Tay bên phải thường nắm lại
w Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào loài
súc sanh:
Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ
Ngón tay và ngón chân đều co quắp
Khắp trong thân mình đều toát ra mồ hôi
Tiếng nói ra khò khè
Miệng thường ngậm đồ ăn
w Hộ niệm
cho người hấp hối:
Nếu người hấp hối đang ở trong bệnh
viện, người thân nên đến chùa (hoặc điện thoại) thỉnh quý Chư Tăng Ni và Ban Hộ
Niệm đến giường bệnh để tiếp dẫn cho người mất. Nếu gia đình không quen
biết chùa nào, có thể tìm đến khoa Chăm sóc về tinh
thần (Pastoral Care - các tu sĩ, giáo sĩ các Tôn giáo chính, được mời vào
làm việc toàn thời hoặc bán thời tại nơi đây. Phân khoa này cũng có một Trung
Tâm Cầu Nguyện (Worship Center) nằm ngay trong khuôn viên bệnh viện để cung ứng cho niềm tín ngưỡng của bệnh nhân) ngay trong
bệnh viện đó để nhờ văn phòng này mời quý Thầy đến hộ niệm.
Nếu không cung thỉnh được quý Thầy,
Cô đến hộ niệm, hoặc nhà ở xa chùa, thì có thể mở băng cassette niệm danh hiệu Phật cho người hấp hối
và con cháu trong nhà đứng xung quanh giường
bệnh để niệm lớn câu: Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật,
niệm liên tục cho đến lúc người ấy trút hơi thở cuối cùng, chứ không được khóc
kể, sầu thảm. Nếu cứ khóc than như thế sẽ khiến cho
thần thức của người sắp ra đi quyến luyến mãi không rời khỏi thân xác,
hoặc nếu có rời khỏi thi thể thần thức người ấy vẫn quanh quẩn trong nhà chứ
không thể siêu thoát được. Một người thân hoặc
người lớn tuổi trong gia đình nên đến bên cạnh người hấp hối nhắc nhở họ
về nguyên lý vô thường: " Cõi đời là huyễn ảo, vô thường, mọi sự vật hiện
tượng sinh rồi diệt, hội họp rồi chia ly, xin người đừng quyến luyến nữa, hãy xả
bỏ tất cả và ra đi trong thanh thản".
Sau khi người bệnh vừa tắt thở: người
thân nhất nên điều chỉnh thi thể trở lại cho ngay
ngắn, mọi động tác đều phải thật nhẹ nhàng, tránh đụng chạm mạnh đến thi thể, vì
lúc ấy thần hồn của người chết chưa ra khỏi thi thể, dễ có cảm giác đau đớn
và khó chịu, chính sự khó chịu ấy sẽ khiến cho thần thức của người thác
sinh vào cõi ác xấu. Cho nên phải cố gắng càng hạn chế chạm đến thi thể người
vừa tắt thở càng tốt. Ba hoặc năm tiếng đồng hồ sau
khi tắt thở, gia đình có thể dùng nước ấm, nước hoa hoặc rượu cồn
(alcohol) để tắm cho người chết và thay quần áo mới. Tất cả nữ trang phải được tháo ra, để ngăn ngừa kẻ tham lam có thể xâm phạm đến
tử thi. Nếu là tín đồ Phật giáo nên mặc lót bên trong một bộ đồ màu
trắng, mới và sạch, bên ngoài mặc áo tràng màu nâu hoặc màu lam và đắp một cái
mền Quang Minh bên trên.
w Tang
sự:
Lễ tang được bắt đầu sau khi người
thân của mình qua đời, có nhiều việc cần thiết phải làm. Những người có
trách nhiệm phải thật bình tĩnh mới có thể giải quyết được công việc. Nếu người
mất theo tín ngưỡng nào thì nên tôn trọng niềm tin của họ mà tổ chức tang lễ
theo nghi thức của tôn giáo ấy. Riêng Phật tử, nên tổ chức theo nghi lễ của Phật
giáo. Nghi lễ này được diễn ra gọn gàng, đơn giản, trang nghiêm, ít tốn kém, và
không theo tập tục mê tín của thế gian, như đốt vàng mã, lầu đài, nhà
kho...
Công việc đầu tiên là một hay
hai người trong gia đình phụ trách liên lạc với quý Thầy để chọn ngày giờ thích
hợp cho việc tẩm liệm, phát tang, di quan và an táng, một mặt liên lạc với Sở Mai táng, để lo mua quan tài, đặt xe tang, nơi an
táng... Những người còn lại trong gia đình chia nhau mỗi người mỗi việc, thông
báo cho thân nhân ở xa, viết cáo phó gởi báo, đài, quét dọn nhà cửa, bàn
thờ Phật, Tổ Tiên, sắm sửa đèn nến, hương hoa, trang hoàng bàn vong để thờ phụng
người quá cố.
Bàn thờ Phật cần được trần thiết
trang nghiêm với một hình hoặc tượng Phật đặt ngay
ngắn ở giữa, hai chân đèn, lư hương, đĩa trái cây, bình hoa, hai ly nước
trong...
Bàn thờ Vong, cũng phải trang hoàng
cho đẹp đẽ với cặp chân đèn, đĩa trái cây,
bình hoa, ba ly nước, một bài vị (gồm có tên tuổi, ngày sinh, ngày mất)
do Thầy viết. Và đặc biệt là di ảnh của người chết, phải chọn một tấm hình đẹp,
rõ ràng của người quá cố để thờ.
w Tẩm
liệm, phát tang, cúng cơm và an táng:
Ðến thời điểm thích hợp đã định trước, quý Thầy Cô, ban Hộ Niệm
cùng tang quyến và bạn bè thân hữu vân tập trước bàn thờ Phật để tụng
Kinh và cầu nguyện cho vong linh người quá cố. Sau khi nắp quan tài đậy lại là
lễ Phát tang (còn gọi là lễ Thành phục). Tất
cả con cháu đều quỳ ngay thẳng trước linh đài của người mất. Quý Thầy
tụng Kinh và sái tịnh vào khăn tang, rồi phát tang
cho tang quyến. Mỗi người đều lạy hai lạy và nhận chiếc khăn màu trắng, rồi chít
khăn lên đầu và mặc quần áo tang.
Theo tục lệ truyền thống, người con
gái chỉ đeo khăn tang, quần tang mà không có áo. Người con rể, chỉ quấn khăn
tang là đủ. Riêng hàng cháu, chắt, trên khăn
tang có đính thêm một miếng vải nhỏ hình tròn màu xanh hay màu đỏ tùy
theo bên nội và bên ngoại. Vợ chồng để tang cho
nhau, chỉ cần bịt một khăn tang là đủ.
Sau khi lễ phát tang là lễ cúng cơm
(tiến linh). Tất cả nên cúng thức ăn chay, cúng nước trà thay vì cúng
rượu. Tiếp đó là lễ tụng kinh cầu siêu cho hương linh. Trong tang lễ, phần quan
trọng nhất là tụng kinh cầu nguyện cho thần hồn người chết siêu thoát, chứ không
phải chú trọng về hình thức cúng kiến, đờn trống, nhạc Tàu, nhạc Tây.... Những
hình thức bề ngoài chỉ cốt để làm nở mặt nở mày của tang quyến đối với người
ngoài, chứ không ảnh hưởng gì đến thần thức người quá cố.
Ðến ngày an táng linh cữu, tang quyến
cùng bè bạn thân hữu cùng quý Thầy Cô và ban Hộ niệm tiễn đưa linh cữu đến nơi an táng (địa táng hay
hỏa táng tùy theo sự chọn lựa của người quá cố), tất cả nên thành tâm niệm Phật để tiếp dẫn vong linh đến nơi an nghỉ
cuối cùng.
Sau lễ an táng, chủ nhà rước vong
linh về nhà hoặc chùa để làm lễ An Sàng, tức là lễ an vị vong linh và di ảnh của
người quá cố. Có nhiều người hiểu lầm lễ này gọi là lễ ăn sàng, nên bắt buộc
tang quyến phải tổ chức tiệc tùng để được ăn uống.
Ðây là một sự thật đáng buồn.
Sau lễ An sàng, là cúng tuần thất (7
ngày sau khi qua đời), cúng Bách nhật (100 ngày), cúng Tiểu tường
(giáp năm, 365 ngày) và cúng Ðại
tường (ba năm xả tang, còn gọi là mãn tang hay mãn khó, tức là đúng 1095 ngày),
rồi từ đó mỗi năm cúng lễ giỗ tưởng niệm (cúng đúng
vào ngày mất gọi là Chánh kỵ, trước ngày mất gọi là Tiên Thường). Và nếu
gia đình tang quyến có điều kiện nên tổ chức lễ Trai Tăng cúng dường, bố thí,
phóng sanh các loài vật, đi lễ Phật và cúng dường 10 chùa, để hồi hướng công đức ấy cho vong linh người quá cố, giúp
họ tái sinh vào cõi giới an lành.
Tóm lại, theo giáo lý nhà Phật, chết
chưa phải là hết mà còn nhiều vấn đề khác nữa, nếu người quá cố chưa giác ngộ
giải thoát, chưa giải quyết được vấn đề sinh tử
ngay trong kiếp sống hiện tại này, thì còn vô số đời sống khác đang đợi chờ họ ở phía sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét